SEARCH :

GLYCATED HEMOGLOBIN, ĐÁI THÁO ĐƯỜNG,VÀ NGUY CƠ TIM MẠCH Ở NGƯỜI LỚN KHÔNG ĐÁI THÁO ĐƯỜNG

 

GLYCATED HEMOGLOBIN, ĐÁI THÁO ĐƯỜNG,VÀ NGUY CƠ TIM MẠCH Ở NGƯỜI LỚN KHÔNG ĐÁI THÁO ĐƯỜNG 

 

Ths.Bs. Trần Văn Hùng

Viện Tim Tp. HCM

Nghiên cứu sinh tại Nhật

                             

 

 

 

 

 

 

                                                          

 

 

  

Đường huyết lúc đói (fasting glucose:FG) là chỉ số chuẩn để chẩn đoán đái tháo đường (ĐTĐ) ở Hoa Kỳ.Về mặt lịch sử, glycated hemoglobin (glycated Hb) chỉ được khuyến cáo cho xác định kiểm soát đường huyết ở những người đã được chẩn đoán ĐTĐ. Khuyến cáo thực hành lâm sàng mới của Hội ĐTĐ Hoa Kỳ (ADA) ủng hộ sử dụng glycated Hb trong chẩn đoán ĐTĐ, dựa trên mối tương quan chặt chẽ giữa glycated Hb và bệnh vi mạch máu. So với FG, glycated Hb có nhiều ưu điểm của 1 xét nghiệm chẩn đoán: có tính lặp lại cao hơn, có thể được đánh giá trong tình trạng không nhịn đói, và là 1 xét nghiệm được ưu chuộng hơn để theo dõi kiểm soát đường huyết. Dữ liệu phòng ngừa dài hạn cũng hữu ích để đưa ra ngưỡng chẩn đoán đối với những trường hợp không có triệu chứng, và có bằng chứng là sự tăng giá trị glycated Hb (GHb) có thể là 1 yếu tố nguy cơ đối với bệnh mạch máu lớn.
Nghiên cứu này được thiết kế để xác định đặc điểm và so sánh mối liên hệ giữa GHb và FG và nguy cơ của bệnh ĐTĐ, bệnh động mạch vành, nhũn não, và tử vong do mọi nguyên nhân trong 1 nghiên cứu đoàn hệ cộng đồng lớn ở người trung niên những người mà trước đó không có tiền sử ĐTĐ. Chúng tôi cũng khảo sát liệu sự tương quan của GHb với bệnh tim mạch mới mắc có thể được giải thích bằng sự mới xuất hiện của ĐTĐ hay không. Chúng tôi giả thiết rằng, GHb có thể là 1 chỉ báo của xuất hiện ĐTĐ và bệnh tim mạch và tử vong vượt trội so với FG, không phụ thuộc chủng tộc. Người ta đã biết rõ rằng những người da đen bị ĐTĐ có GHb cao hơn những người da trắng có cùng đặc điểm; sự khác biệt này cũng được nhận thấy ở những người lớn không bị ĐTĐ. Tuy nhiên, lý giải lâm sàng của những sự khác biệt này là chưa được biết rõ, và hiện tại có ít dữ liệu về tương quan giữa GHb và kết cục ở người da đen.
PHƯƠNG PHÁP:
Dân số nghiên cứu:
Nghiên cứu NGUY CƠ XƠ VỮA ĐỘNG MẠCH TRONG CỘNG ĐỒNG (ARIC) là một nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu thực hiện trong cộng đồng trên 15792 người trung niên ở 4 cộng đồng tại Hoa Kỳ.
Lần thăm khám đầu tiên được thực hiện trong khoảng thời gian từ 1987 đến 1989 với 3 lần khám bệnh. (visit 1)
Lần thăm khám thứ 2(visit 2) từ 1990 đến 1992, có 14348 người tham gia. Mục đích của lần thăm khám này chỉ để lưu giữ mẫu máu để đo GHb; đây là lần khám cơ bản của nghiên cứu này (baseline visit).
Tiêu chuẩn loại trừ:
-          Những người không xác định là người da đen hoặc da trắng.
-          Những người đã biết bị ĐTĐ hoặc đã sử dụng thuốc điều trị ĐTĐ (được ghi nhận trong visit 1 hoặc 2)
-          Những người có tiền sử bệnh tim mạch hoặc có biến cố về tim mạch (được ghi nhận trong visit 1 hoặc 2)
-          Những người không nhịn đói khi được lấy máu hoặc mất dữ liệu.
Cỡ mẫu cuối cùng của chúng tôi là 11092 những người tham gia . Protocol nghiên cứu được ủy ban có trách nhiệm chấp thuận và được sự đồng ý của những người tham gia.
Đo lường GHb:
Các mẫu máu thu thập trong lần visit 2 của nghiên cứu ARIC được rã đông và đo GHb bằng kỹ thuật high-performance liquid chromatography (with the use of the Tosoh A1c 2.2 Plus Glycohemoglobin Analyzer method in 2003–2004 and the Tosoh G7 method in 2007–2008, Tosoh Corp). (Both instruments were standardized to the Diabetes Control and Complications Trial assay.)
Đánh giá ĐTĐ:
Mức glucose huyết thanh được đo bằng phương pháp hexokinase. Chúng tôi sử dụng 2 định nghĩa để chỉ ra bệnh nhân ĐTĐ mới được xác định: ĐTĐ dựa vào thăm khám (visit-based definition) và ĐTĐ dựa vào phỏng vấn (interview-based definition).
-          ĐTĐ dựa vào thăm khám được định nghĩa theo 1 thời gian chuẩn dựa trên kết quả đo glucose máu, bệnh nhân tự thông báo bị ĐTĐ hoặc sử dụng thuốc điều trị ĐTĐ tối đa 6 năm.
-          ĐTĐ dựa vào phỏng vấn được định nghĩa dựa trên bệnh nhân tự thông báo chẩn đoán hoặc dùng thuốc điều trị ĐTĐ trong suốt những lần thăm khám của nghiên cứu ARIC và kết quả từ điện thoại hàng năm với thời gian theo dõi tối đa 15 năm.
Những biến số quan tâm khác:
Mức lipid huyết tương, chỉ số khối cơ thể (BMI), tỉ số eo/hông, và huyết áp được đo theo phương pháp đã chuẩn hóa. Tăng huyết áp được định nghĩa là giá trị trung bình của 2 lần đo ở mỗi lần khám (huyết áp tâm thu ≥140mmHg, huyết áp tâm trương ≥ 90mmHg) hoặc sử dụng thuốc hạ áp. Những người tham gia thông báo trình độ học vấn, sử dụng rượu, hút thuốc lá. Khả năng hoạt động thể lực được đánh giá bằng cách sử dụng bảng câu hỏi Baecke ở visit 1 trong nghiên cứu ARIC.
Theo dõi bệnh động mạch vành, tai biến mạch máu não mới mắc và chết do mọi nguyên nhân:
    Các trường hợp tử vong và phân loại các biến cố tim mạch được nêu chi tiết ở 1 nơi khác trong bài báo này. Nói một cách ngắn gọn, các trường hợp nhập viện mà nghi ngờ do bệnh tim mạch được báo cáo hàng năm bởi những người tham gia nghiên cứu và các trường hợp này cũng được hội đồng giám sát bệnh viện xác định. Những người nghiên cứu đã rút ra những điểm chính từ các hồ sơ bệnh án của những bệnh nhân có khả năng có sự hiện diện của các biến cố tim mạch. Nhồi máu cơ tim im lặng, được phát hiện bởi ECG trong suốt thời gian khám bệnh, được xác định và ghi lại. Chúng tôi định nghĩa bệnh động mạch vành mới được chẩn đoán như là xác định hoặc có thể nhồi máu cơ tim, chết do bệnh động mạch vành, can thiệp, hoặc bằng chứng ECG của nhồi máu cơ tim im lặng. Chúng tôi cũng khám các trường hợp xác định hoặc có thể nhũn não. Xét dữ liệu theo dõi đối với những biến cố tim mạch thích hợp đến 01/01/2006.
Phân tích thống kê.
    Đặc điểm cơ bản của dân số nghiên cứu được tính toàn bộ và theo phân loại của giá trị glycated Hb ( <5.0%, 5.0 - < 5.5, 5.5 - < 6.0%, 6.0 - <6.5%, và ≥6.5%). Tỉ số nguy cơ đã được hiệu chỉnh và khoảng tin cậy 95% được đánh giá bằng mô hình Cox proportional-hazards. 3 mô hình chính là: Mô hình 1 được hiệu chỉnh với tuổi, giới, và chủng tộc. Mô hình 2 được hiệu chỉnh với tuổi, giới, chủng tộc, mức LDL-C và HDL-C, mức triglyceride, tỉ lệ eo/hông, tăng HA, tiền sử gia đình ĐTĐ, trình độ học vấn, uống rượu, hoạt động thể lực, hút thuốc lá. Chúng tôi đánh giá mô hình 1 và 2 với quan tâm đến hoặc phân loại glycated Hb (được gọi mô hình 1a và 2a) hoặc phân loại theo đường huyết lúc đói chuẩn (100, 100- < 126, ≥126mg/dL) (Được gọi là mô hình 1b và 2b). Cuối cùng, mô hình 3 được hiệu chỉnh với tất cả các biến trong mô hình 2 + mức đường huyết lúc đói mới vào nghiên cứu (baseline fasting glucose: bFG) (mô hình 3a) hoặc giá trị glycated Hb lúc mới vào nghiên cứu (baseline glycated hemoglobin:bGHb) (mô hình 3b).
Glycated Hb có giới hạn từ 5.0 đến < 5.5% có số lượng người tham gia nhiều nhất (4950 người) và được dùng làm tham khảo.
Chúng tôi kiểm tra tác động qua lại giữa chủng tộc và giới tính. Để điều tra nghiên cứu một chẩn đoán ĐTĐ được chẩn đoán trước một biến cố tim mạch lẫn tử vong có thể giải thích mối tương quan có thể với GHb. Chúng tôi dẫn ra những phân tích mà trong đó những trường hợp ĐTĐ đã được chẩn đoán xảy ra trước biến cố quan tâm được kiểm duyệt. Chúng tôi cũng đưa ra những phân tích kiểm tra mối tương quan giữa mỗi kết cục với giá trị bGHb sau khi loại trừ những người có mức đường huyết lúc đói ≥ 126mg/dL ở lần khám 1 hoặc 2. Để đánh giá mối tương quan GHb với 1 nguy cơ của những kết cục tương với những nhóm bFG, chúng tôi đưa ra những phân tích của những nhóm kết hợp giữa 2 nhóm bFG và bGHb. Để đánh giá sự cải thiện toàn bộ trong phân loại nguy cơ thêm vào GHb để hiệu chỉnh đầy đủ những mô hình bao gồm FG, chúng tôi tính toán sự tăng cường sự phân nhóm và phân biệt thống kê.
Tất cả giá trị P trình bày là 2 đuôi. Chúng không được hiệu chỉnh đối với nhiều sự so sánh.
KẾT QUẢ
            Những đặc điểm cơ bản của dân số nghiên cứu, tính chung và riêng theo nhóm GHb, được chỉ ra trong bảng. GHb và bFG liên quan mật thiết (r =0,73). Trong nghiên cứu này, những người da đen, ít học, rối loạn lipid máu, chỉ số khối cơ thể (BMI) cao và hiện tại không nghiện rượu có khuynh hướng có GHb cao hơn. Như những nghiên cứu trước, dân số không ĐTĐ của chúng tôi, người da đen có giá trị GHb trung bình (5,8%) cao hơn có ý nghĩa so với những người da trắng (5,4%), ( P <0,001).  
Table 1
    Thời gian theo dõi trung vị khoảng 14 năm. Hơn 80% những người tham gia nghiên cứu được khám lâm sàng, và số người còn tham gia nghiên cứu ARIC sau thời gian theo dõi là cao (>90%). Trong 6 năm đầu theo dõi, 620 người tham gia được xác định có ĐTĐ, theo định nghĩa ĐTĐ dựa trên thăm khám. Trong suốt 15 năm theo dõi, 2252 người tham gia thông báo chẩn đoán ĐTĐ hoặc sử dụng thuốc điều trị ĐTĐ (định nghĩa ĐTĐ dựa trên phỏng vấn). Có 1198 trường hợp bệnh động mạch vành và 358 trường hợp nhũn não, và 1447 người tử vong. Tỉ lệ mới mắc (incidence) ĐTĐ tự thông báo trong 15 năm là 20%. Tỉ lệ bệnh mới cộng dồn ĐTĐ được chẩn đoán là 6%, 12%, 21%, 44% và 79% trong số những người tham gia với giá trị GHb < 5%, 5- <5,5%, 5,5- < 6%, 6%- < 6,5% và ≥ 6,5%. Tỉ lệ bệnh mới (trên 1000 người/năm) được chỉ ra theo nhóm GHb trong hình 1.
Figure 1

Hình 1: Tỉ lệ bệnh mới của ĐTĐ chẩn đoán tự thông báo trong dân số nghiên cứu theo nhóm GHb lúc mới vào nghiên cứu (bGHb).

Tỉ lệ bệnh mới của ĐTĐ được chỉ ra, trên 1000 dân-năm, cho trung vị mỗi nhóm GHb. Thanh I chỉ ra khoảng. tin cậy 95%
 

 

    
 
Tỉ số nguy cơ hiệu chỉnh (và khoảng tin cậy 95%) của nguy cơ 6 năm bị ĐTĐ phát hiện do thăm khám và nguy cơ 15 năm của những kết cục khác được chỉ ra trong bảng 2 theo nhóm GHb. Giá trị GHb mới vào nghiên cứu < 5,0%, so với 5,0%- < 5,5%, liên quan với gần nửa nguy cơ của ĐTĐ chẩn đoán dựa vào thăm khám (tỉ số nguy cơ cho mỗi kết cục trong những mô hình 1 và 2, khoảng 0,5). Sự hiệu chỉnh thêm vào đối với đường huyết lúc đói (trong mô hình 3a) làm giảm sự tương quan này, nhưng nhóm GHb vẫn duy trì tương quan mạnh với ĐTĐ được chẩn đoán. Chúng tôi cũng nhận xét xu hướng tăng nguy cơ bệnh động mạch vành, nhũn não, và chết do mọi nguyên nhân có ý nghĩa tương ứng với mức cao của GHb mới vào nghiên cứu. Mối tương quan này vẫn được duy trì ngay cả sau khi hiệu chỉnh với đường huyết lúc đói (mô hình 3a)
Hình 2 biểu diễn tỉ số nguy cơ đã được hiệu chỉnh đối với ĐTĐ, bệnh động mạch vành, tai biến mạch máu não và tử vong do mọi nguyên nhân và nhóm GHb mới vào nghiên cứu/ mỗi tăng 1% giá trị tuyệt đối GHb. Không có bằng chứng của giá trị ngưỡng GHb để chẩn đoán ĐTĐ, nhưng có bằng chứng đối với ngưỡng có thể đối với nguy cơ bệnh động mạch vành. Không có sự tương quan có ý nghĩa giữa giá trị GHb và nguy cơ bệnh động mạch vành ở những người có giá trị GHb < 5%, nhưng khi so sánh nhóm có GHb ≥ 5,5% với nhóm này tỉ số nguy cơ bệnh động mạch vành là 1,38 (khoảng tin cậy 95%: 1,22-1,56). Chúng tôi nhận thấy có mối tương quan đường cong J đối với chết do mọi nguyên nhân. Những người tham gia có GHb nằm trong nhóm thấp nhất ( <5%) có nguy cơ chết do mọi nguyên nhân cao hơn có ý nghĩa so với những người trong nhóm có GHb từ 5% - <5,5% ( Bảng 2 và hình 2).
Hình 2. Tỉ số nguy cơ đã hiệu chỉnh đối với ĐTĐ được chẩn đoán bằng phỏng vấn và bệnh động mạch vành, nhũn não, và chết do mọi nguyên nhân, theo giá trị glycated Hb lúc mới vào nghiên cứu (bGHb).
Figure 2
Bảng 2. Tỉ số nguy cơ đã hiệu chỉnh đối với kết cục lâm sàng chọn lọc trong dân số nghiên cứu trong suốt 15 năm nghiên cứu, nhóm glycated Hb mới vào nghiên cứu (bGHb) và mô hình.*
 
Trong phân tích theo phân nhóm, mối tương quan đường cong J tồn tại sau khi loại trừ những người tham gia bị thiếu máu, hiệu chỉnh với dung tích hồng cầu (Hct), thể tích khối HC trung bình (MCV), và loại trừ chết xảy ra trong 3 năm đầu theo dõi (dữ liệu không đưa ra). Trong dữ liệu phân tích có kiểm duyệt đối với những người được chẩn đoán ĐTĐ trong quá trình theo dõi, mối tương quan được duy trì có ý nghĩa thống kê giữa GHb và bệnh động mạch vành, nhũn não, và chết do mọi nguyên nhân. Nhóm FG tương quan với những nguy cơ kết cục trong những mô hình được hiệu chỉnh tối thiểu, nhưng mối tương quan này bị giảm sau khi hiệu chỉnh với những yếu tố nguy cơ khác (bảng 3). Khi so sánh mức bFG < 100mg/dL, 100 - < 126mg/dL tương quan với ĐTĐ được chẩn đoán (tỉ số nguy cơ, 2,31; 95% CI, 2,06 – 2,59) nhưng không tương quan với bệnh động mạch vành (tỉ số nguy cơ, 1,03; 95% CI, 0,91 – 1,18), nhũn não (tỉ số nguy cơ, 0,97; 95%CI, 0,76- 1,23), và chết do mọi nguyên nhân (tỉ số nguy cơ, 1,07; 95%CI, 0,96- 1,21) sau khi hiệu chỉnh với những biến khác (mô hình 2b) (bảng 3), trái lại ĐTĐ không được chẩn đoán (được định nghĩa khi mức ≥126mg/dL lúc mới vào nghiên cứu) là có ý nghĩa, tương quan độc lập với sự phát triển bệnh động mạch vành (tỉ số nguy cơ, 1,29; 95%CI, 1,04 – 1,61), nhũn não (tỉ số nguy cơ, 1,89; 95%CI, 1,33- 2,69), và chết do mọi nguyên nhân (tỉ số nguy cơ, 1,31; 95%CI, 1,07- 1,61). Sau khi hiệu chỉnh thêm đối với GHb trong mô hình 3b, có tương quan có ý nghĩa thống kê được chú ý giữa nhóm đường huyết lúc đói và nguy cơ bệnh động mạch vành, nhũn não, và chết do mọi nguyên nhân. Trong số 10069 người tham gia với mức đường huyết lúc đói < 126mg/dL ở visit 1 và 2, nhóm GHb có tương quan tương tự, trong mô hình 3b khi so sánh với mô hình 1b và 2b, với ĐTĐ đã được chẩn đoán, bệnh động mạch vành, nhũn não, và chết do mọi nguyên nhân (bảng 2 trong phần phụ lục).
Table 3
Chúng tôi cũng đánh giá mối tương quan của 3 nhóm có GHb khác nhau (< 6%, 6% - < 6,5% và ≥ 6,5%) với những nguy cơ của những kết cục trong những người tham gia được phân tầng theo nhóm đường huyết lúc đói (< 100, 100 - < 126, và ≥ 126mg/dL)  (bảng 3 trong phần phụ lục). Những nhóm có GHb từ 6 - < 6,5% và ≥ 6,5% tương quan có ý nghĩa thống kê với tất cả những kết cục trong mỗi nhóm đường huyết lúc đói, mối tương quan càng tăng với nhóm có GHb càng cao. Trái lại, nếu giá trị GHb < 6%, FG tương quan không có ý nghĩa với bệnh động mạch vành, nhũn não, hoặc chết do mọi nguyên nhân.
Không có ảnh hưởng lẫn nhau có ý nghĩa giữa giới tính và nhóm GHb đối với bất kì kết cục lâm sàng nào (p> 0,20 cho tất cả ảnh hưởng). Cũng không có ảnh hưởng lẫn nhau có ý nghĩa giữa chủng tộc và giá trị GHb đối với nguy cơ động mạch vành, nhũn não, hoặc chết do mọi nguyên nhân (p> 0,80 cho tất cả ảnh hưởng). Tuy nhiên chủng tộc xuất hiện làm giảm mối tương quan giữa giá trị GHb và nguy cơ của ĐTĐ được chẩn đoán trong 15 năm theo dõi (p= 0,007) cho tất cả ảnh hưởng), nhưng không có ảnh hưởng giữa chủng tộc cà mối tương quan giữa giá trị GHb và nguy cơ mắc ĐTĐ chẩn đoán từ thăm khám trong 6 năm (p = 0,81 cho tất cả ảnh hưởng). Khi so sánh với những người da trắng, những người da đen có tỉ số nguy cơ đã hiệu chỉnh đối với ĐTĐ chẩn đoán từ phỏng vấn thấp hơn trong suốt 15 năm theo dõi, trong mỗi nhóm GHb. Một ảnh hưởng tương tự cũng được quan sát giữa chủng tộc và mức đường huyết lúc đói đối với nguy cơ ĐTĐ tự báo cáo chẩn đoán (p = 0,01 đối với ảnh hưởng).
            Tăng cường sự phân nhóm và phân biệt thống kê đối với ĐTĐ được chẩn đoán và bệnh động mạch vành được cải thiện có ý nghĩa với thêm vào GHb đến mô hình của FG (như một biến liên tục) và những biến khác (xem phần phụ lục).
Bảng 3: Tỉ số nguy cơ hiệu chỉnh đối với các kết cục lâm sàng có chọn lọc trong dân số nghiên cứu trong 15 năm, phân loại theo nhóm đường huyết lúc đói lúc mới vào nghiên cứu và mô hình(Model.*)
BÀN LUẬN:
Trong những người Hoa kỳ không có chẩn đoán ĐTĐ, hơn 2,4 triệu người có GHb > 6.5% và 7 triệu người có GHb > 6%. Nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng những người có GHb ≥ 6% có nguy cơ cao bị mắc ĐTĐ, ngay cả sau khi hiệu chỉnh với những yếu tố nguy cơ khác và độc lập với bFG. Chúng tôi cũng phát hiện thấy rằng GHb là 1 chỉ điểm của nguy cơ tim mạch. Trong dân số không ĐTĐ này, GHb vẫn có mội liên hệ với bệnh tim mạch và tử vong ngay cả sau khi hiệu chỉnh với bFG; trái lại bFG không có liên quan có ý nghĩa sau khi hiệu chỉnh với GHb. Chúng tôi cũng mô tả bảng phân loại lại nguy cơ được cải tiến tốt hơn đối với bệnh động mạch vành khi đưa thêm GHb vào những mô hình hiệu chỉnh đầy đủ, gợi ý GHb có thể vượt trội hơn so với FG trong việc đánh giá đặc điểm nguy cơ dài hạn.
GHb phản ánh mức đường huyết nội sinh trung bình trong vòng từ 2 đến 3 tháng, gồm đỉnh đường huyết trong máu sau ăn, và ít thay đổi trong mỗi cá thể, đặc biệt là trong những người không bị ĐTĐ. Những đặc điểm này có thể góp phần tạo nên tính vượt trội của GHb so với FG cho việc phân tầng nguy cơ dài hạn của bệnh mạch máu lớn.
Những khuyến cáo cho chẩn đoán ĐTĐ được dựa trên mối liên hệ của FG và GHb với bệnh vi mạch máu, đặc biệt là bệnh võng mạc.Tuy nhiên bệnh tim mạch là nguyên nhân hàng đầu của bệnh tật, tử vong, và nhập viện ở những người ĐTĐ. Những dữ liệu của chúng tôi cho rằng GHb trong giới hạn bình thường có thể xác định những người ở nguy cơ cao của bệnh động mạch vành, đột quỵ, và tử vong trước chẩn đoán ĐTĐ, chỉ ra rằng GHb là 1 chỉ điểm hữu ích cho nguy cơ bệnh tim mạch và chết do mọi nguyên nhân. Tương quan đường cong J giữa Hb và nguy cơ chết do mọi nguyên nhân đưa ra rằng trong những trường hợp có nguy cơ về sức khỏe nhưng có mức đường huyết thấp GHb nên được sử dụng như 1 yếu tố cảnh báo.
Như trong nghiên cứu này, y văn đã nêu ra sự tăng nguy cơ tim mạch đi kèm với tăng GHb trong những trường hợp không bị ĐTĐ. Chúng tôi đã đề cập trước đó (sử dụng thiết kế case-cohort) sự tương quan của GHb với bệnh động mạch vành và đột quỵ trong 1 phân nhóm của dân số nghiên cứu ARIC có FG thấp (ở 2 thời điểm) và 1 nhóm bệnh nhân ĐTĐ có GHb thấp. Tuy nhiên, những thử nghiệm lâm sàng gần đây chỉ ra rằng ít lợi điểm và có thể 1 vài trường hợp là có hại khi hạ mức GHb ở bệnh nhân ĐTĐ để phòng ngừa kết cục tim mạch. Trái lại, những lợi điểm về vi mạch máu của kiểm soát đường huyết đạt được rất tốt. Mặc dù đường huyết có phải là nguyên nhân gây ra bệnh tim mạch hay không còn chưa rõ, dữ liệu của chúng tôi đưa ra rằng GHb trong giới hạn bình thường có thể là 1 chỉ điểm hữu ích cho nguy cơ tim mạch. Vì thế, GHb vượt quá 6% có thể là 1 chỉ điểm lâm sàng hữu ích để xác định những người có nguy cơ mắc không những chỉ ĐTĐ mà còn bệnh tim mạch và tử vong.
Mặc dù có sự khác nhau có ý nghĩa về giá trị GHb giữa những người da đen và da trắng, chủng tộc không làm thay đổi sự liên quan giữa GHb và kết cục tim mạch và tử vong trong dân số này. Tuy nhiên, chúng tôi đã quan sát thấy mối tương quan có ý nghĩa giữa chủng tộc và bị ĐTĐ trong 15 năm theo dõi (nhưng không có mối tương quan đối với ĐTĐ dựa thăm khám (theo dõi trong 6 năm), gợi ý rằng những người da đen ít đi khai báo ĐTĐ hơn là người da trắng, trong tất cả các nhóm GHb. Chúng tôi quan sát thấy mối tương quan chủng tộc tương tự đối với bFG và ĐTĐ. Vì thế, mức GHb cao hơn trong những bệnh nhân da đen không bi ĐTĐ so với bệnh nhân da trắng không bị ĐTĐ có thể được giải thích 1 phần bởi sự chậm trễ trong chẩn đoán. Nghiên cứu của chúng tôi không ủng hộ sử dụng ngưỡng GHb chuyên biệt cho mỗi chủng tộc để xác định những người có nguy cơ ĐTĐ, bệnh tim mạch hoặc tử vong.
Những giới hạn quan trọng của nghiên cứu này bao gồm sự tin cậy trên mỗi bGHb và chỉ số bFG, một số lượng được giới hạn của những chỉ số FG trong suốt thời gian theo dõi và sự thiếu xác định của những trường hợp tự báo cáo ĐTĐ đối với phân tích trong 15 năm. .Tuy nhiên, trong số những phân tích nhạy cảm so sánh định nghĩa ĐTĐ dựa trên mức FG, dùng thuốc, và thông tin tự thông báo- tất cả thích hợp trong vòng 6 năm đầu thời gian theo dõi- những kết quả của chúng tôi là tương tự (xem phần phụ lục). Do tính chất của nghiên cứu này là quan sát, khả năng loại bỏ hoàn toàn yếu tố gây nhiễu tồn đọng là không thể được. Tuy nhiên, nghiên cứu này là 1 nghiên cứu lớn nhất về GHb trên cộng đồng liên quan đến những thông tin về mắc bệnh ĐTĐ và những biến cố tim mạch xác định trong suốt quá trình theo dõi. Những điểm mạnh chủ yếu của nghiên cứu phụ thuộc nghiên cứu ARIC này là việc sử dụng những sự theo dõi cụ thể và xác định các biến cố tim mạch và sự đo lường kỹ lưỡng của những yếu tố nguy cơ. Dân số người da đen lớn là 1 yếu tố mạnh thêm vào, cho phép chúng tôi dẫn ra phân tích vững chắc nguy cơ của sự khác nhau có thể về chủng tộc.
Trong dân số da đen và da trắng không bị ĐTĐ của nghiên cứu dựa trên cộng đồng này, GHb đánh giá nguy cơ dài hạn bệnh tim mạch vượt trội so với FG, đặc biệt ở mức giá trị > 6%. Những dữ liệu này có thể thêm bằng chứng mà ủng hộ sử dụng GHb như 1 phương pháp chẩn đoán ĐTĐ.